Category: NGHIÊN CỨU
10 NĂM HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CỦA KHOA NHÂN HỌC Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội
PHAN NGỌC BÀN VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA
GIÁO SƯ TRẦN QUỐC VƯỢNG: MỐI TƯƠNG GIAO VỚI DÂN TỘC HỌC
“Gần 50 năm hoạt động khoa học, với hàng trăm công trình được công bố, GS. Trần Quốc Vượng nổi lên như một hiện tượng độc đáo của khoa học xã hội Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Qua tư duy sắc bén, lòng nhiệt huyết và sự tài hoa của ông, những niên đại, sự kiện lịch sử, những chứng tích khảo cổ học hay văn hóa dân gian dường như bừng tỉnh để tự bạch về vai trò, ý nghĩa và sứ mệnh của mình trong dòng văn minh đất nước và văn minh nhân loại. Có thể nói, nhắc tới GS. Trần Quốc Vượng, trước hết phải cảm phục tầm trí tuệ của ông, song sẽ chưa đủ nếu không nhận thấy: ông còn là người đầy khí cốt SỐNG (chữ viết hoa sinh thời ông vẫn dùng). Và có lẽ, ông hấp dẫn cuộc đời cũng chính bởi hai phẩm chất này”.
ĐẨY LÙI HÀNG TRUNG QUỐC Ở VÙNG BIÊN
CƠM Ở VIỆT NAM: TỪ DINH DƯỠNG ĐẾN CHỨC NĂNG XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
Bài viết này của Vương Xuân Tình đăng trên Tạp chí Văn hóa học, Số 2/2020.
Tóm tắt bài viết:
Sinh sống tại khu vực được coi là một trong những cái nôi của cây lúa, các tộc người ở Việt Nam dùng gạo làm nguồn lương thực chính và cơm là món rất quan trọng trong bữa ăn hàng ngày. Tùy theo vùng sinh thái, điều kiện thực tế và truyền thống văn hóa, các tộc người chế biến được nhiều loại cơm khác nhau. Dựa theo nguồn nguyên liệu, có các loại cơm tẻ, cơm tấm, cơm nếp, cơm độn, cơm hến; dựa theo cách chế biến, có cơm nấu, cơm đồ, cơm lam, cơm hấp lá sen, cơm niêu, cơm chiên, cơm nướng, cơm cháy… “Cơm ba bát, áo ba manh”, “Cơm tẻ, mẹ ruột” là những thành ngữ nói về vị thế dinh dưỡng của cơm trong đời sống con người. Cơm không chỉ là món ăn, mà còn được khái quát hóa thành bữa ăn. Bữa cơm là một yếu tố quan trọng để gắn kết các thành viên trong gia đình, cộng đồng và còn phản ánh điều kiện sống hay phân tầng xã hội (cơm thợ, cơm đồng, cơm đèn, cơm vua). Cơm cũng trở thành các biểu tượng văn hóa đặc sắc, như cơm là gốc của đời sống, biểu hiện của giàu sang hay hèn kém, và gắn với các ứng xử xã hội liên quan. Do có vị trí quan trọng trong đời sống nên cơm còn gắn với rất nhiều hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, như trong thờ cúng tổ tiên, thờ cúng thần linh, tang ma hay các nghi lễ khác.
Từ khóa: Cơm, tộc người, Việt Nam, chế biến, dinh dưỡng, xã hội, văn hóa.
Toàn văn bài viết:
Cơm ở Việt Nam_Từ dinh dưỡng đến chức năng xã hội và văn hóa
TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ NƯỚC NGOÀI VỚI NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
Bài viết của Vương Xuân Tình đăng trên Tạp chí Dân tộc học, Số 3, 2020.
Tóm tắt bài viết:
Từ khi Đổi mới (1986), Việt Nam đã thu hút ngày càng nhiều dự án của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (INGOs). Trong 63 tỉnh, thành phố được INGOs đầu tư, có 24 tỉnh ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhận được 21% tổng số viện trợ của INGOs. Các dự án thuộc INGOs triển khai tại vùng này gồm nhiều hợp phần, song thường có hợp phần liên quan đến nâng cao năng lực ở các lĩnh vực: y tế, giáo dục, chăm sóc và bảo vệ nhóm yếu thế; hoạt động sinh kế; tổ chức, quản lý gia đình và phát triển cộng đồng. Hoạt động nâng cao năng lực của INGOs tác động tích cực đến phát triển nguồn nhân lực của các dân tộc thiểu số, thay đổi cơ cấu kinh tế, cải thiện các quyền của nhóm yếu thế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người, xây dựng mô hình phát triển ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Song, hoạt động này cũng còn những hạn chế do nguồn vốn của INGOs hạn hẹp, có mô hình chưa phù hợp với điều kiện địa phương, sự quan liêu ở một số cán bộ của cơ quan đối tác.
Từ khóa: Tổ chức phi chính phủ nước ngoài, nâng cao năng lực, dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Việt Nam.
Toàn văn bài viết:
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài với nâng cao năng lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
THUA TRẮNG BỤNG VỀ LÝ LUẬN TRÊN SÂN NHÀ
Những nước như Việt Nam, công tác lý luận vô cùng quan trọng. Điểm then chốt của lý luận này là phải kiên định và làm sáng tỏ chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện của Việt Nam, đúng như GS.TS. Phùng Hữu Phú đã trình bày.
Có thể nói, với chủ nghĩa Mác – Lênin, thuyết tiến hóa được coi như xương sống. Phát triển từ thuyết tiến hóa về sinh học, thuyết tiến hóa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao, trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội (nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, và cộng sản) là một tất yếu khách quan.
Nhưng trong khoảng 2 thập kỷ qua ở Việt Nam, thuyết tiến hóa bị phê phán dữ dội trong diễn ngôn khoa học và truyền thông. Thay vì thuyết tiến hóa xã hội, các thuyết như tương đối văn hóa (không có văn hóa cao, văn hóa thấp và nhìn nhận văn hóa phải đặt trong bối cảnh cụ thể), thuyết đa dạng văn hóa (đa dạng văn hóa có giá trị như đa dạng sinh học) rất được đề cao.
Vậy mà, tôi chưa thấy một ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương nào đứng ra bảo vệ thuyết tiến hóa; thậm chí nhiều vị rất gật gù với các thuyết tương đối văn hóa và đa dạng văn hóa.
Như thế, chí ít là các quý vị không hoàn thành nhiệm vụ.
Còn nặng hơn, thì đã thua trắng bụng về lý luận trên sân nhà.
Fb, ngày 11/6/2020
NGÔ ĐỨC THỊNH – NGƯỜI ANH LỚN CỦA TÔI TRONG KHOA HỌC
Vào lúc 7 giờ 20 phút sáng nay, ngày 6/6/2020, GS.TS. Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa) thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã về với thế giới người hiền, hưởng thọ 76 tuổi.
GS.TS. Ngô Đức Thịnh là một nhà nghiên cứu văn hóa có tầm vóc, trên nền tảng của một nhà dân tộc học. Ông từng có nhiều năm công tác ở Viện Dân tộc học, bởi vậy, những công trình nghiên cứu của ông khó bóc tách đâu là dân tộc học, đâu là văn hóa dân gian. Vả chăng, ranh giới giữa hai ngành khoa học này cũng mỏng manh.
Có lẽ với gốc nguồn và bối cảnh như thế nên mặc dù GS.TS. Ngô Đức Thịnh có cống hiến lớn trên lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, đặc biệt trong những năm tháng ông là Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian (1994-2004), và khi nghỉ hưu, là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam – một tổ chức NGO, song chúng tôi vẫn luôn nhận ông là người của dân tộc học.
Với dân tộc học Việt Nam, nếu tính từ GS.TS. Nguyễn Văn Huyên, người có công khai mở cho ngành khoa học này, GS.TS. Ngô Đức Thịnh được coi là thuộc thế hệ thứ ba, sau những tên tuổi lớn của thế hệ thứ hai, như các nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi, Đặng Nghiêm Vạn, Phan Hữu Dật, Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Diệp Đình Hoa, Mạc Đường…
Với tôi, GS.TS. Ngô Đức Thịnh là một người anh lớn trong khoa học, và chắc nhiều người thế hệ tôi cũng ngưỡng mộ ông.
Trí lự và sắc bén. Trong phạm vi của dân tộc học, GS.TS. Ngô Đức Thịnh quan tâm rất nhiều lĩnh vực, như trang phục, nông cụ, ẩm thực, luật tục, sử thi, tín ngưỡng dân gian. Có cảm tưởng rằng, bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào mà ông để mắt tới cũng sẽ gặt hái được thành tựu. Song trong nhiều lĩnh vực như đã nói, kết quả nghiên cứu về luật tục, sử thi và tín ngưỡng dân gian thể hiện rõ nhất trí lự, sắc bén của ông, kể cả tổ chức nghiên cứu và học thuật.
Nghiên cứu luật tục, GS.TS. Ngô Đức Thịnh đã truyền cảm hứng, kết nối các nhà nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong và ngoài nước tham dự, như văn hóa dân gian, dân tộc học, sử học, luật học, môi trường, nông nghiệp. Là người đặt nền tảng quan trọng cho nghiên cứu sử thi Tây Nguyên, ông và cộng sự đã góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa độc đáo của các tộc người khu vực này. Nghiên cứu Đạo Mẫu, ông đã có đóng góp lớn để UNESCO công nhận thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là di sản văn hóa phi vật thể. GS.TS. Ngô Đức Thịnh còn được xem là một trong những người có tầm ảnh hưởng trong vận dụng và xây dựng lý thuyết nghiên cứu, thể hiện qua các công trình “Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam”, “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam”.
Trí lự và sắc bén như vậy, nên chắc không quá lời khi ví ông như chim đại bàng trong một lĩnh vực khoa học.
Song vẫn còn thiếu nếu không nhắc đến công lao đào tạo của ông. Có lần ông chia sẻ với tôi, đại ý: Trong cơ chế này, khó đào tạo người kế nhiệm mình, song vẫn có thể đào tạo đội ngũ khoa học kế cận mình.
Tôi tin rằng, nhiều học trò và cộng sự của GS.TS. Ngô Đức Thịnh thấm thía điều đó.
Ảnh: GS.TS. Ngô Đức Thịnh trong buổi bảo vệ luận án Tiến sĩ của Vương Xuân Tình, năm 1999.
BẢO TỒN TÀI NGUYÊN DO CỘNG ĐỒNG QUẢN LÝ
Khu bảo tồn tài nguyên do cộng đồng quản lý là nơi có giá trị đa dạng sinh học và giá trị văn hóa của địa phương, được cộng đồng sở tại tự nguyện bảo tồn bằng luật tục hoặc các giải pháp quản lý hiệu quả. Đó có thể là các khu rừng thiêng, rừng đầu nguồn, hang động hay bãi chăn thả. Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia đã thừa nhận loại hình bảo tồn này.
Tại Việt Nam, Luật lâm nghiệp năm 2017 công nhận có loại “Rừng tín ngưỡng”, và cộng đồng dân cư là một trong những chủ rừng. Ngoài ra, các Luật đa dạng sinh học, Luật di sản văn hóa cũng có những điều liên quan. Thực tế hiện nay, nhiều khu rừng do cộng đồng quản lý có giá trị bảo tồn, với diện tích từ một đến vài trăm ha.
Dựa trên cơ sở đã nêu, Trung tâm Con người và thiên nhiên (PanNature) trong những năm qua đã có hoạt động để góp phần thúc đẩy bảo tồn tài nguyên do cộng đồng quản lý. Từ ngày 16-20/5/2020, một cuộc tập huấn đã được PanNature tổ chức tại bản Hua Tạt, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Tham gia tập huấn, có đại diện của cơ quan ở Trung ương, địa phương và NGO. Tập huấn đi sâu vào việc tài liệu hóa các giá trị văn hóa và bản đồ hóa khu bảo tồn này.
Hình ảnh ghi lại một số hoạt động của cuộc tập huấn được đăng trên facebook: